NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY

 

Tác giả: Lâm Thanh Huyền

 Dịch giả: Phạm Huê

 

 

L.T.S.: Câu chuyện được trích dẫn sau đây nhắc nhở chúng ta rằng trong việc thiền định hay tŕ tụng kinh chú, quan trọng là sự định tâm, lóng ư. Bản phiên âm Đại Bi Thần Chú tiếng Việt đă bị sót 5 chữ trong những bản in Kinh Nhật Tụng của hơn nửa thế kỷ trước. Tăng Ni và phật-tử Việt đă cùng nhau tŕ tụng thần chú Đại Bi sót 5 chữ, tính theo mỗi đầu người của 3 đến 5 thế hệ, mỗi người tụng một đời khoảng 100 ngàn biến, vị chi bao nhiêu tỉ biến Đại Bi của hàng triệu người, suốt hơn nửa thế kỷ qua. Sót 5 chữ, vẫn linh thiêng, hiệu nghiệm, đưa hành giả đến nhất tâm, đạt được những phước báo không thể nghĩ bàn. Cảm tạ những học giả hay vị Hán học nào đă so sánh và t́m thấy chỗ thiếu sót của bản Đại Bi Thần Chú tiếng Việt (so với bản Hán văn của Trung Hoa); nhưng chúng ta nên bắt đầu điều chỉnh ở một lớp người nào đó chưa từng tụng đọc qua Đại Bi Thần Chú; c̣n những người đă thuộc ḷng và nhập tâm, dễ đi vào nhất tâm với bản Đại Bi tiếng Việt, xin tôn trọng, để họ tiếp tục hành tŕ, v́ nếu ép họ phải thêm 5 chữ cho đúng (với bản Hán hay Phạn), việc tŕ tụng của họ sẽ khó tập trung, mất đi sự hiệu nghiệm, nếu không muốn nói là phá hoại năng lượng một đời của họ--giống như câu chuyện của bà lăo tŕ tụng Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn sau đây. Và cũng xin đừng phát ngôn rằng phải tụng bản Hán có đủ 5 chữ kia th́ mới linh nghiệm, c̣n bản tiếng Việt th́ không linh nghiệm. Linh hay không, do ở sự chí thành, nhất tâm, không phải nơi nhiều hay ít chữ, đúng hay sai chữ. Tất nhiên đúng chữ, đủ chữ vẫn tốt hơn, nhưng trong trường hợp Đại Bi Chú Việt Nam, cũng như trường hợp “Om Ma Ni Bay May Khuya” của bà lăo phật-tử trong truyện, nên tôn trọng bề dày công phu và kinh nghiệm nhất tâm của các hành giả.

Cảm ơn tác giả Lâm Thanh Huyền và dịch giả Phạm Huê, cùng nhà xuất bản Văn Nghệ đă ấn hành tác phẩm “Những Hạt Đậu Biết Nhảy” này.

 

 

Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lăo sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đă qua đời.  Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc.  V́ cuộc đời đă trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lăo cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đă cố công t́m hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được b́nh yên.  Cuối cùng th́ bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát.  Câu thần chú gồm có sáu chữ Om Ma Ni Bay May Hôm (1) được gọi là Lục Tự Đại Minh Chú, có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng.  Tội nghiệp cho bà già thôn dă đă dốt nát lại không biết chữ, trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc ḷng, nhưng đă nhớ lộn cách phát âm trở thành Om Ma Ni Bay May Khuya.

Để khích lệ cho việc đọc câu kinh sám hối này, bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, c̣n một cái th́ để đầy những hạt đậu nành.  Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đă đầy đậu th́ bà làm ngược trở lại. Bà lăo đă không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm.  Ḷng thành kính của bà đă ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không c̣n cần đến bàn tay của bà nhặt lấu, cứ một câu thần chú vừa được phát âm ra th́ một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.  Bà lăo thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với âm điệu của câu thần chú th́ biết rằng sự tu hành đă đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sửa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn nữa.

Hôm nọ có vị cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp sụp của bà, nhà sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ.  Vị cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo.  Ông vội vă ghé vào thăm hỏi.  Bà lăo lấy làm vui mừng khi thấy vị cao tăng đến thăm, bà qú xuống đảnh lễ, mà miệng th́ vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Om Ma Ni Bay May Khuya. Vị cao tăng lấy làm ngạc nhiên v́ không hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu? Ông lần lần hỏi thăm:

-  Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây c̣n có ai khác nữa không?

-  Thưa ngài, ở đây chỉ có một ḿnh tôi sống cô độc hơn 30 năm nay.  Bà lăo đáp.

-  Thật tội nghiệp, bà ở một ḿnh chắc buồn lắm nhỉ?

-  Không đâu, tuy ch́ ở một ḿnh, nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng niệm kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ.  Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện th́ tôi càng có can đảm để sống hơn.

-  Bà đang tu luyện kinh sách nào vậy?

-  Ồ, tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Om Ma Ni Bay May Khuya.

Nhà sư thở dài tiếc nuối:

-  Bà lăo ơi, bà đă đọc sau câu thần chú đó rồi, phải phát âm là Om Ma Ni Bay May Hôm mới đúng.

Đến lúc này th́ bà lăo mới biết là đă đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm.  Bà rất đau buồn v́ sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy th́ công tŕnh 30 năm tụng niệm coi như se cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà sư:

-  Dù sao th́ ngài cũng đă đính chính kịp lúc, bằng không th́ tôi c̣n tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh đúng được.

Nhà sư từ giă bà lăo để tiếp tục con đường truyền đạo của ông.  Bà lăo lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới. Om Ma Ni Bay May Hôm. Thế nhưng tâm tư của bà c̣n hỗn độn v́ sự việcc vừa rồi cho nên ư chí của bà không được tập trung.  Mỗi câu thần chú của bà đă không c̣n làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước.  Bà lăo vừa tụng niệm mà nước mắt ứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công tŕnh ty luyện hơn ba mươi năm như trôi theo ḍng nước v́ đă đọc sai câu thần chú.

Nhà sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nh́n lại thấy căn nhà của bà lăo không c̣n hào quang chói sáng.  Bây giờ túp lều tranh hiện h́nh dốt nát mà lại âm u buồn bă.  Nhà sư giật ḿnh và nghĩ rằng chính ông đă làm hại người Phật Tử này không c̣n tập trung được tư tưởng như lúc trước.  Ông vội vă trở lại túp lều tranh và nói với bà lăo rằng:

-  Lúc năy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng.

-  Nhưng tại sao sư phụ lại dối gạt tôi như vậy?

-  Ta muốn thử xem ḷng thành kính của bà đối với Tam Bảo (2) như thế nào vậy thôi.  Từ nay về sau, bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi.

-  Cám ơn Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đă trôi theo ḍng nước, đa tạ sư phụ chỉ điểm.

Sau khi nhà sư ra đi, bà lăo lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Om Ma Ni Bay May Khuya được niệm ra th́ tâm hồn bà rộn ră tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.  Nhà sư đi lên đến đỉnh núi ông ngoái đầu nh́n trở lại th́ thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lăo đă làm sáng rực cả một góc trời.

Trên đây là một câu chuyện đă được lưu truyền rất rộng răi trong thế giới Phật Giáo, tôi chỉ sửa đổi lại một vài chi tiết nhỏ.  Nhớ lại lần đầu tiên khi đọc xong câu chuyện này tôi rất lấy làm cảm động. Cảm động v́ tấm ḷng thành kính của bà lăo đối với Tam Bảo. Câu chuyện này nói lên rằng âm điệu của thần chú tuy quan trọng, thế nhưng ḷng thành kính, sự tín ngưỡng, và ư chí chân thành trong lúc niệm thần chú c̣n quan trọng hơn nhiều.

Thật ra sáu chữ trong Lục Tự Thần Chú này khó có thể lấy một từ ngữ nào để diễn đạt cho được trọn vẹn ư nghĩa.  Miễn cưỡng th́ ta có thể hiểu được đại ư là “Cầu xin tự tâm thanh tịnh, Liên Hoa Phật nở rộ trong ḷng”.  Từ chỗ này chúng ta thấy rằng triết lư nhà Phật luôn cho rằng khi muốn tâm hồn đạt được sự thanh tịnh, tất cả phải do sự tự phát từ đáy ḷng của con người mà ra.  Khi bà lăo tụng Lục Tự Thần Chú, tâm địa của bà  trong sạch, quang minh lỗi lạc như bầu trời không vướng bận một áng mây, v́ vậy mà cách phát âm đúng hay sai của câu thần chú lúc đó không c̣n là một yếu tố quan trọng.  Dĩ nhiên, đối với những người phàm phu tục tử chúng ta khi mà sự chân thành tôn kính chưa đạt đến một tŕnh độ có thể làm cho những hạt đậu nhảy được th́ âm điệu chính xác của thần chú và kinh kệ hăy c̣n là một qui luật phải được thực thi đúng đắn.

Hiện nay Lục Tự Thần Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát đă trở thành một câu chân ngôn được phổ biến rộng răi trong thế giới Phật Giáo.  Tuy nhiên rất ít người biết được nguồn gốc của câu thần chú này.  Nếu như chúng ta biết được rằng Lục Tự Thần Chú đă nở ra từ hàng ngàn mảnh xương sọ của Quán Thế Âm Bồ Tát th́ chắc chắn chúng ta sẽ ngạc nhiên và rúng động hơn nữa.

Quán Thế Âm Bồ Tát là một đệ tử của đức phật A Di Đà, ngài đă phát nguyện trước đức Phật Đà một lời thề vĩ đại: “Tận hết sức lực, thần thông để phổ độ tất cả chúng sinh. Nếu như c̣n một chúng sinh nào chưa được siêu thoát, đệ tử sẽ quyết không thành chánh quả. Nếu như tất cả chúng sinh chưa siêu thoát mà đệ tử nửa đường bỏ cuộc, th́ xương sọ của đệ tử sẽ nứt vỡ thành muôn ngàn mảnh.”

Sau khi lập xong lời trọng thệ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă ứng hiện tất cả mọi thần thông, háo thân thành trăm, ngàn, vạn h́nh hài cứu độ được vô số chúng sinh. Trải qua vô lượng kiếp luân hồi, chúng sinh được độ đă nhiều như Hằng hà sa số (3). Thế nhưng khi nh́n lại thế gian, ngài vẫn thấy hăy c̣n thiên vạn chúng sinh đang ngụp lặn trong si mê, trầm luân, trụy lạc; vẫn hăy c̣n vô số chúng sinh đang chịu những khổ nạn tai ách; và những chúng sinh đang tạo ác nghiệp cũng động như cỏ kiến.  Từ đó ngài suy diễn ra, nếu cứ tiếp tục luân hồi măi măi, th́ nỗi đau đớn của chúng sinh sẽ c̣n tái diễn liên miên, sự việc độ tŕ chúng sinh do đó sẽ không bao giờ chấm dứt. Nghĩ đến đây, Quán Thế Âm Bồ Tát cảm thấy phiền năo. Ngài nghĩ rằng: “Cái khổ của chúng sinh là do chúng sinh mà ra. Khi thế gian c̣n tồn tại th́ nỗi khổ của chúng sinh sẽ không bao giờ chấm dứt mà ta th́ sẽ không bao giờ độ cho hết được. Lời thề ngày nào là do ta tự làm khổ lấy ta thôi. Nếu như đối với chúng sinh không có ích lợi, th́ ta c̣n kiên tŕ với lời thề làm chi?”

Thương thay, khi ư nghĩ thối lui của Quán Thế Âm Bồ Tát vừa chợt xuất hiện th́ lời thề của ngài tức th́ phản ứng. Xương sọ của ngài tự nhiên nứt vỡ thành muôn ngàn mảnh, tản mác ra như một đóa hoa sen trăm cánh. Đồng thời Phật A Di Đà cũng từ trong chiếc sọ rạn nứt này hiện thân (4) ngài nói với Quán Thế Âm Bồ Tát rằng:

“Thiện tai Quán Thế Âm, lời thề không thể bỏ, nuốt lời là đại tội. Những việc thiện trước đây, đều trôi theo ḍng nước. Khuyên ngươi tiếp tục tu, nguyện ước tự nhiên thành. Tam thế cùng thập phương (5), chư Phật cùng Bồ Tát, sẽ hết sức giúp cho, thành công đă đến gần”.

Sau đó Đức Phật A Di Đà đă truyền cho ngài khẩu huyết Lục Tự Thần Chú. Quán Thế Âm Bồ Tát sau khi nghe niệm Lục Tự Chân Ngôn, ngài đạt được đại trí tuệ, sinh đại giác ngộ, và tiếp tục giữ lấy lời thề mà không lùi bước. Chúng ta biết rằng Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Từ Bi, là vị Bồ Tát có thiên thủ thiên nhăn, cứu khổ cứu nạn, linh cảm, linh ứng. Lực lượng của ngài có được là nhờ vào quyền năng Lục Tự Chân Ngôn của Phật A Di Đà truyền cho. Cũng từ sự tích này mà Lục Tự Chân Ngôn c̣n được gọi là Quán Âm Tâm Chú.

Đây là một huyền thoại rất cảm động, năo bộ nứt ra trăm ngàn mảnh của Quán Thế Âm Bồ Tát nở thành đóa hoa sen ngàn cánh. Đó chính là sự tượng trưng đẹp đẽ nhất của Lục Tự Chân Ngôn. Trong số chúng sinh chúng ta, có bao nhiêu người nuôi được ư chí hủy hoại thân xác phàm trần hiện hữu thành tro bụi để nuôi dưỡng cho một đóa hoa sen được ung dung nở trong tim óc mọi người.

Nhớ lại lần đầu tiên khi nghe xướng âm Lục Tự Chân Ngôn, thanh âm trầm hùng, trang nghiêm đơn thuần, thanh tịnh đó đă khiến cho tôi cảm động rơi nước mắt. Có thể nói rằng trên thế gian không có một thanh âm nào dơng dạc, tràn đầy lực lượng như câu thần chú này. Thật là:

Một tấm ḷng trong sáng,

Hoa sen nở rộn ràng,

Sen nở vùng đất sạch,

Trên ngự một Như Lai.

 

 

Chú thích:

 

(1) Om Ma Ni Bay May Hôm: câu thần chú trên đây đă được phổ biến rộng răi trong thế giới Phật Giáo, nhất là trong phái Mật Tông vùng Tây Tạng. Câu thần chú này đă được phiên âm ra Việt Ngữ là Án Ma Ni Bát Mê Hồng. Người ta luyện câu thần chú này như một phương thức rèn luyện nội công thiền định. Trước hết, t́m một nơi không khí lưu thông, đứng thẳng người, hai tay lật ngửa để ngang bụng, bàn  tay trái đặt trên ḷng bàn tay phải. Bắt đầu hít vào lồng ngực một hơi thật dài, khi lồng ngực đă chứa đầy dưỡng khí th́ mở miệng thở từ từ, đồng thời phát ra âm thanh om và tưởng tượng như luồng chân khí đang ở đỉnh đầu, kế tiếp theo phát âm ma và cố gắng đưa luồng hơi xuống đến mũi. Tiếp theo đến âm ni th́ luồng hơi được chuyển xuống đến cổ họng. Tương tự đến âm bay th́ luồng hơi được đưa đến lồng ngực, âm may th́ chân khí trong người đă được đưa đến đan điền (bụng), tiếp tục đến âm hôm th́ luồng hơi được chuyển đến hậu môn và thoát ra bên ngoài cơ thể. Nên nhớ là trong lúc sáu chữ trong câu thần chú này được phát âm th́ luồng hơi của cơ thể đang ở trong trạng thái thở ra. Sau đó, sự tập luyện bắt đầu tái diễn bằng cách hít hơi vào lồng ngực… Với h́nh thức vừa đọc thần chú vừa vận dụng đưa làn hơi trong người tuần hoàn khắp châu thân rồi thoát ra ngoài cơ thể sẽ khiến cho cơ thể con người được giữ ở một trạng thái sạch sẽ và minh mẫn. Những lúc cơ thể mệt mỏi hoặc tinh thần cảm thấy bồn chồn không được an tâm, quư vị có thể thực hiện như lời chỉ dẫn trên đây để lấy lại được sự b́nh thản trong tâm hồn.

(2) Tam Bảo: Phật Pháp Tăng gọi chung là Tam Bảo. Phật tượng trưng cho từ bi chánh nghĩa. Pháp là lời của Phật dạy hay c̣n được ghi chép lại thành kinh điển. Tăng là người tu hành, có nhiệm vụ diễn  dịch và giảng dạy những ư nghĩa trong kinh điển cho tín đồ.

(3) Hằng hà sa số: Hằng Hà là tên một con sông lớn của xứ Phật Ấn Độ. Hạ lưu ḍng sông này cũng là nơi Phật Giáo khai sinh và phát triển. Phù sa sông Hằng nhiều vô số kể và đă nuôi dưỡng không biết bao nhiêu dân chúng Ấn Độ. V́ vậy kinh điển Phật Giáo thường dùng số lượng phù sa của sông Hằng để nói lên cái số nhiều không đếm xuể được.

(4)  Hiện thân A Di Đà Phật: Từ sự tích trên đây, mà bây giờ những h́nh tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát đều đội măo, và chính giữa chiếc măo có một tượng Phật A Di Đà. Đây cũng là cách nh́n vào để phân biệt giữa Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát.

(5) Thập phương: từ chữ thập phương thế giới, thập phương chỉ đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới. Phật Giáo chủ trương có thập phương vô số thế giới gọi là Thập phương thế giới. Trong số thế giới đó có chư Phật và chúng sinh nên c̣n gọi là Thập phương Chư Phật và Thập phương chúng sinh.

 

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 08/08/11