ĐỌC THƠ XUÂN CỦA NGUYỄN DU
Lam Nguyên
Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tự là Tố Nhu 素 如, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đậu Tam trường năm 19 tuổi. Năm 1787, ông đang giữ một chức quan võ ở Thái Nguyên thì Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, ông lui về ẩn tại quê nhà.
Năm 1802, vua Gia Long thống nhất đất nước, ông bị vời ra làm quan, lần lượt giữ các chức Tri huyện Phụ dực Thái bình, Tri phủ Thường tín Hà đông. Năm 1804, ông cáo quan, nhưng năm 1806 lại bị triệu ra làm quan, và lần lượt giữ các chức Đông các Đại học sĩ ở kinh 1806, Bố chính tỉnh Quảng bình 1808, Cần chánh điện Đại học sĩ, sung chức chánh sứ sang Tàu 1813, Lễ hộ Hữu Tham tri 1814.
Năm 1820, ông lại được cử đi sứ nhưng chưa kịp đi thì mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn. Tác phẩm chữ Hán có Thanh Hiên tiền tập, Thanh Hiên hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành thi tập, Lê quý kỷ sự. Tác phẩm chữ Nôm có Đoạn trường tân thanh, Văn tế thập loại chúng sanh, Thác lời trai phường nón.
瓊 海 元 宵
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu
元 夜 空 庭 月 滿 天
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
依 依 不 改 舊 嬋 娟
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
一 天 春 興 誰 家 落
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,
萬 里 瓊 州 此 夜 圓
Vạn lí Quỳnh Châu thử dạ viên.
鴻 嶺 無 家 兄 弟 散
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
白 頭 多 恨 歲 時 遷
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
窮 途 憐 汝 遙 相 見
Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến,
海 角 天 涯 三 十 年
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
素 如 Tố Như
Lam Nguyên phỏng dịch:
Đêm Nguyên Tiêu Ở Quỳnh Hải
Nguyên tiêu sân vắng nguyệt đong đầy,
Vẻ đẹp ngày xưa chẳng đổi thay.
Bóng ngọc Quỳnh Châu tròn vạn dặm,
Một bầu xuân tứ rớt nhà ai.
Anh em lưu lạc xa Hồng Lĩnh,
Ngày tháng tuần hoàn chịu đắng cay.
Thương cảnh cùng đường xa thấy bạn,
Ba mươi tuổi góc bể chân trời!
(Seattle, Thu 2009)
春 日 偶 興
Xuân Nhật Ngẫu Hứng
患 氣 經 時 戶 不 開
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,
逡 巡 寒 暑 故 相 催
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.
他 鄕 人 與 去 年 别
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
瓊 海 春 從 何 處 來
Quỳnh hải xuân tòng hà xứ lai.
南 浦 傷 心 看 綠 草
Nam phố thương tâm khan lục thảo,
東 皇 生 意 漏 寒 梅
Đông hoàng sanh ý lậu hàn mai.
鄰 翁 奔 走 村 前 廟
Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu,
斗 酒 雙 柑 醉 不 回
Đẩu tửu song cam túy bất hồi.
素 如 Tố Như
Lam Nguyên phỏng dịch:
Ngày Xuân Ngẫu Hứng
Mãi đóng cửa suốt mùa trời xấu,
Rét lại nồng lui náu lẫn nhau.
Quê người thân khách dãi dầu,
Giờ xuân Quỳnh Hải từ đâu lại rồi.
Nhìn cỏ biếc bùi ngùi Nam Phố,
Nhớ hoa mai hiện rõ xuân nồng.
Miếu thần quanh quẩn lân ông,
Rượu cam say tít nên không về nhà!
Seattle, Thu 2010.
山 居 漫 興
Sơn Cư Mạn Hứng
南 去 長 安 千 里 餘
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
羣 峯 深 處 野 人 居
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
柴 門 晝 靜 山 雲 閉
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
藥 圃 春 寒 隴 竹 疏
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
一 片 鄉 心 蟾 影 下
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
經 年 別 淚 雁 聲 初
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
故 鄊 弟 妺 音 耗 絕
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
不 見 平 安 一 紙 書
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
素 如 Tố Như
Lam Nguyên phỏng dịch:
Ở Núi Cảm Hứng
Ngàn dặm Trường An cách phía Nam,
Người quê núi thẳm túp lều nằm.
Cửa sài ngày vắng mây nhiều lớp,
Vườn thuốc xuân trơ trúc mấy hàng.
Trăng dõi hương quê lòng khắc khoải,
Nhạn xa dòng lệ khách âm thầm.
Anh em năm tháng biệt tin tức,
Chẳng một tờ thư gửi đến thăm!