VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ
D̉NG SINH MỆNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Thích Nguyên Siêu
Mở đầu cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, Quyển 1, nhà sử học Phạm Cao Dương viết: Dù sống tản mác ở bất cứ phương trời nào, trong bất cứ quốc gia nào hay ở chính quốc, người Việt Nam đều thuộc về một dân tộc thuần nhất, có chung một nguồn gốc, một quá khứ và những ước vọng chung về một ngày mai tươi đẹp huy hoàng.
Lịch sử hơn bốn ngàn năm Văn hiến của dân tộc Việt Nam đă chịu ảnh hưởng không ít về các điều kiện phát triển thiên nhiên, cùng hoàn cảnh sinh sống của dân tộc, v́ thế Văn hóa Việt Nam cũng theo tiến tŕnh Lịch sử đă tạo nên một nền văn hóa có một sắc thái rất đặc thù.
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xă hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v...
Sự phát triển đời sống xă hội của nhân loại nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng đều chịu ảnh hưởng một phần không nhỏ vào điều kiện phát triển đời sống vật chất và tâm linh của từng địa phương.
Do ở một vị thế địa lư đặc biệt trên giao lộ quốc tế, Nước Việt Nam là nơi gặp gỡ giữa các nền văn minh Ấn-Hoa lẫn văn minh Hy-La. Người Việt Nam đă tiếp xúc và hấp thụ được từ các nguồn tư tưởng sâu sắc, tốt đẹp nhất. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có khả năng tiếp nhận và Việt hóa những tinh hoa các trào lưu văn hóa Đông Tây, gạt bỏ những điều không thích hợp với lối sống dân tộc để trở thành một nền văn hóa dân tộc với những đặc tính tự chủ, nhân bản, bất khuất. Tinh hoa của nền văn minh Ấn Hoa đă được người Việt Nam gạn lọc, đồng hóa để trở thành nền văn hóa cổ truyền, thấm nhuần vào nếp sống Việt Nam. Đạo Khổng và đạo Lăo được đưa vào Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc bởi các quan lại Trung Hoa với mục đích tổ chức cai trị, người Việt Nam khéo léo dung hợp để đề cao tinh thần dân tộc và tính đoàn kết.
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng một phần văn hóa và phong tục Trung Hoa sau hơn một ngàn năm bị họ đô hộ, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của ḿnh với một nền văn hóa riêng biệt. Người Việt Nam dùng chữ Hán trong văn tự, nhưng nhất định không đọc theo giọng Tàu, cũng như không nói tiếng Tàu.
Một nền văn hóa có giá trị được định nghĩa là một nền văn hóa nhân bản, phụng sự con người và nâng cao giá trị con người. Văn hóa dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm đều nhằm mục đích phụng sự quốc gia, dân tộc. Thừa hưởng giá trị của nền văn hóa dân tộc đó, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có một ḷng yêu nước thâm sâu, một t́nh cảm bao dung, độ lượng và một đức tính hy sinh vô bờ bến.
Song hành với tự t́nh quốc gia, dân tộc, Đạo Phật đăø hướng dẫn con người có một nhận định, một niềm tin hầu tạo nên một sức phấn đấu để tự thực hiện và xây dựng một sự sống an lành cho chính ḿnh và cho nhân loại, v́ thế tư tưởng Phật giáo đă thấm nhuần trong tâm khảm của mỗi người, được nuôi dưỡng bởi mọi người, và cũng đang tồn tại v́ cuộc đời.
Đạo Phật có khả năng dung ḥa rất mạnh mẽ. Bằng nguyên lư căn bản của Phật Pháp, bằng giá trị tu tập, Đạo Phật đi đến đâu đều thích nghi ngay với văn hóa, chính trị ở nơi đó mà hoằng dương phát triển. Có thể nói Trí tuệ Thực chứng là dẫn đạo cốt yếu cho mọi sinh hoạt phật sự, sẽ hoàn thành một cách linh động mọi căn cơ, phương tiện.
Do vậy, Phật Giáo đă được dân tộc Việt Nam trang trọng đón nhận và trân quư giữ ǵn.
Ở đây, chúng ta thử nh́n vào sự ảnh hưởng và tính hỗ tương giữa Văn Hóa Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ thời mở nước và dựng nước của dân tộc.
Nước Việt Nam lập quốc từ họ Hồng Bàng, khởi đầu là Kinh Dương Vương và 18 đời vua Hùng Vương (khoảng 2897 năm trước Tây lịch), quốc hiệu là Văn Lang. Qua nhiều thời đại, quốc hiệu thay đổi nhiều lần. Chúng ta tạm chia các giai đoạn Lịch sử theo bài viết này các thời kỳ như sau:
- Thời kỳ Lập Quốc và Bắc thuộc.
- Thời Kỳ Tự Chủ và Cận Đại.
- Thời Kỳ Hiện Đại.
- Thời Hải Ngoại.
I. Thời Kỳ Lập Quốc và Bắc Thuộc
Vua Hùng Vương là Quốc Tổ của dân tộc Việt, đă đặt nên nền móng căn bản cho xă hội Việt Nam thời thượng cổ.
Truyền thuyết Một Bọc Trăm Trứng được truyền tụng từ đời này qua đời khác, biểu tượng ṇi giống Rồng Tiên đă ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt, như một nhắc nhở thiêng liêng về huyết thống, cội nguồn của dân tộc.
Vua Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, đặt ra các quan chức Lạc Hầu, Lạc tướng, lấy các việc thuần hậu, đạo đức làm căn bản để trị dân.
Các Vua Hùng truyền ngôi được tất cả 18 đời, đều cùng lấy hiệu là Hùng Vương.
Thời kỳ này đă có nhiều đặc điểm truyền thống tinh thần của dân tộc qua các chuyện cổ tích c̣n được lưu truyền đến ngày nay như chuyện Phù Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, chuyện Trầu Cau, chuyện Bánh Dầy Bánh Chưng, chuyện Chử Đồng Tử v. v. . . Nổi bật nhất có lẽ là chuyện Thành Cổ Loa và An Dương Vương. Thành Cổ Loa, cho đến nay vẫn c̣n vết tích chứng minh nền văn minh trống đồng của dân tộc Việt.
Tuy ởø thời kỳ thượng cổ, văn hóa c̣n sơ khai, nhưng ư nghĩa của những chuyện cổ tích thời đó đă hàm chứa rất nhiều đặc tính văn hóa của dân tộc mà chúng ta c̣n thừa hưởng được cho đến ngày nay như chuyện Bánh Dầy, Bánh Chưng nói lên ư nghĩa cao quư của nguồn gốc nhân bản dân tộc, đồng thời cũng nêu cao ư nghĩa thờ cúng Tổ Tiên, tỏ ḷng biết ơn cha mẹ, nhớ đến cội nguồn. Ư thức này là nền tảng cho gia đ́nh, dân tộc trong đời sống văn hóa cổ truyền của người Việt. Từ đó, tinh thần gia đ́nh và phong tục ở chuyện Trầu Cau, ḷng ái quốc thương ṇi qua h́nh ảnh Phù Đổng Thiên Vương được in sâu vào ḷng người dân Việt.
Nh́n chung, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa tự chủ, có dân tộc tính, có khả năng sinh tồn và không bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục Trung Hoa, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của người Việt với một nền văn hóa cá biệt. Dân tộc Việt Nam đă khéo léo biết dung hợp những cái tinh túy của văn hóa người và thay đổi cho thích hợp để tạo thành bản chất riêng biệt Việt Nam. V́ thế, mặc dù dân tộc Việt Nam bị người Trung Hoa đô hộ trên một ngàn năm, bản chất văn hóa dân tộc không những vẫn tồn tại mà c̣n được phát triển tốt đẹp hơn bằng cách Việt Nam hóa những tinh túy của văn minh Trung Hoa.
Trong khoảng hơn một ngàn năm này, các triều đại bên Tầu liên tiếp xua quân xâm chiếm nước ta, đặt dân Việt Nam dưới ách đô hộ của họ, bắt đầu từø nhà Hán, nhà Ngô, nhà Lương, nhà Đường và chấm dứt khi quân nhà Đông Hán bị Ngô Vương Quyền đánh tan trên sông Bạch Đằng.
Lúc đầu, tuy có tiếp xúc trực tiếp với Ấn Độ, nhưng sự phát triển của Phật giáo hết sức phôi thai. Các vị sư như Mâu Bác, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Chương Lương được sử sách chép là những vị đầu tiên truyền bá Phật Giáo vào Việt Nam.
Sang đến các triều đại Tùy, Đường bên Trung Hoa, đạo Phật được phát triển tại Việt Nam tương đối vững vàng hơn nhờ ở sự hiện diện khá nhiều của các Tăng sĩ Trung Hoa sang Việt Nam lánh nạn v́ t́nh trạng loạn lạc bất ổn trong các triều đại ở Trung Hoa. Trong thời gian này, Phật Giáo phát triển đă có hệ thống như ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Ấn Độ qua Việt Nam truyền pháp làm tổ thứ nhất của phái Thiền Tông Tỳ-ni-đa-lưu-chi tại chùa Pháp Vân, tỉnh Bắc Ninh, sau lại có Vô-Ngôn-Thông lập ra phái Vô-Ngôn-Thông ở chùa Kiến Sơ cũng ở Bắc Ninh, sau đến các phái như Thảo Đường, Tào Động, Lâm Tế v. v. . . điển h́nh nhất là những kinh sách được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán qua sự thông ngôn của người bản xứ.
Theo đó, sự phát sinh một nền văn hóa Việt Hán là do nỗ lực truyền bá cưỡng bách, nghiệt ngă của các quan lại người Tàu, cùng với sự hấp thụ tự nhiên của người bản xứ sau hơn mười thế kỷ bị thống trị, đồng thời cũng do sự nỗ lực của các sư người Tàu như Vô-Thông-Ngôn, Thảo Đường trong việc truyền bá Phật Giáo vào Việt Nam.
II. Thời Kỳ Tự Chủ Và Cận Đại
Thời kỳ này bắt đầu từ năm 939, sau khi Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở đầu một kỷ nguyên mới cho một quốc gia Việt Nam độc lập.
Đến đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê th́ các Tăng sĩ lỗi lạc đều được triệu về giúp Vua lo cho dân cho nước. Phật Giáo được triều đ́nh công nhận từ đấy.
Cho đến đời Lư Thái Tổù th́ Phật Giáo được cực kỳ trọng vọng. Chùa chiền được xây cất và trùng tu rất nhiều. Nổi tiếng nhất phải kể đến Vạn Hạnh Thiền Sư, người có công giúp Lư Thái Tổ lập nên nhà Lư.
Chúng ta đọc lịch sử Phật giáo thế giới, chưa thấy có vị Vua nào từ bỏ ngai vàng để đi tu, nhưng dưới triều đại nhà Trần đă có các vị Vua xem ngai vàng điện ngọc như đôi dép rách, không màng danh lợi, luyến tiếc ngôi báu, xem vinh hoa phú quư nhẹ tợ mây trời. Có nhà Vua đă từng từ bỏ cung điện trốn vào núi xin xuất gia, sống đời Tăng sĩơ. Chừng ấy đủ biết nền văn hóa Phật giáo - Phật pháp đă ăn sâu mọc rễ trong quảng đại quần chúng, giá trị thực tu, thực chứng, bằng lư tưởng Bồ Tát đạo, lư tưởng giác ngộ giải thoát đă được người dân tiếp nhận một cách sâu xa và thấm đượm hương giải thoát thuần nhất.
Thời đại tự chủ này, nền văn hóa đạo Phật đă đóng góp một cách tích cực cho quốc gia dân tộc. Một mặt th́ lo tô bồi nền văn học, mở trường giáo dục, thuyết giảng Phật pháp, chỉnh đốn chính trị, thể chế quốc gia hầu kiện toàn một nền tự chủ, độc lập. Một mặt lo chống giữ sơn hà, dẹp tan quân xâm lăng nhà Nguyên đem lại cho nước nhà được thanh b́nh thịnh trị.
Từ tiếng nói đoàn kết của toàn dân qua tinh thần nhất quán của Hội Nghị Diên Hồng, đă tỏ rơ tinh thần yêu nước, từ Vua quan đến dân chúng, đă biểu lộ và nêu cao gương ḥa hợp thống nhất: Hội họp trong tinh thần đoàn kết, bàn luận trong tinh thần đoàn kết và giải tán trong tinh thần đoàn kết mà Đức Phật đă dạy. Đây là những điểm son của lịch sử nước nhà. Người học đạo, hiểu đạo và biết áp dụng cái học, cái hiểu của ḿnh để xây dựng, làm những điều ích nước lợi dân.
Trên chặng đường lịch sử này, ngoài xă hội, con dân th́ lưu xuất các bậc anh tài, tuấn kiệt, các anh hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Trần B́nh Trọng, Trần Khánh Dư . . . đánh đuổi xâm lăng giữ yên bờ cơi nước nhà, một thời được thanh b́nh thịnh trị. Trong đạo giáo th́ thánh sanh chư vị Long Tượng, Thạch Trụ, Thiền Gia, chư vị Tổ Sư Thiền Môn Pháp phái mà tự thân của chư vị minh quân tài đức đă thể đạt tu chứng.
Vua Trần Thánh Tôn lên ngôi Thái Thượng Hoàng năm Mậu Dần (1278), truyền ngôi lại cho con là Thái Tử Khâm tức Vua Trần Nhân Tôn, người đă có một trí tuệ ưu việt, thông minh đĩnh đạt, làu thông kinh điển. Lúc quốc gia thanh b́nh, dân chúng ấm no lạc nghiệp nhà Vua chong đèn đọc sách dịch kinh, chuyên cần tu tỉnh. Lúc nước nhà bị giày xéo xâm lăng, th́ nhà Vua cầm quân, cưỡi ngựa xông pha ngoài trận mạc, đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên sơn hà xă tắc. Nhà Vua tu đạo Bồ Tát, phụng hành hạnh vị tha, thỉnh cầu Tuệ Trung Thượng Sỹ chỉ dạy pháp tu, chuyên tinh thiền định để rồi chứng đắc Sơ Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử. Tổ Trúc Lâm trước khi thị tịch, nói kệ chứng đắc:
Nhất thiết Pháp bất sanh,
Nhất thiết Pháp bất diệt,
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền,
Hà khứ lai chi hữu.
Và Tôn hiệu của Ngài là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Huệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Chư Vị Tổ Đức Pháp Loa Tôn Sư, Huyền Quang Tôn Sư... trước khi thị tịch cũng như bao nhiêu Tổ Sư trước, Pháp Loa Tôn Sư đă đề kệ:
Trần duyên rũ sạch từ xưa,
Bốn mươi năm lẻ, bây giờ là tiên,
Hỏi chi thêm bận, thêm phiền,
Trăng thanh gió mát là miền tiêu dao.
Và Huyền Quang Tôn Sư cũng vậy, nhà Vua đă ban cho Ngài tự hiệu: Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Như sợi chỉ tơ lung linh trước gió, khi thẳng khi chùng đă xuyên suốt một ḍng lịch sử, nền văn hóa dân tộc có lúc thật thiết tha t́nh tự, nhưng cũng có lúc phôi pha, nghiệt ngă bởi những văn hóa ngoại lai xâm nhập, hay t́nh tự dân tộc bị xói ṃn theo tính tùy tiện. Do vậy, ḍng sinh mệnh Phật giáo chảy dài suốt chặng đường lịch sử dân tộc cho đến thời kỳ cận đại và hiện đại cũng bị ảnh hưởng sự suy sụp đó không ít. Nói chung, khi đất nước được thanh b́nh phồn thịnh, dân chúng được tự do, hạnh phúc, th́ đạo Phật cũng được tự do hành đạo. C̣n lúc gặp thời nghiệt ngă, đất nước điêu linh, th́ đạo Phật cũng phải uốn ḿnh chảy qua các thác ghềnh thời đại, để cùng chia xẻ nỗi đau chung của dân tộc.
III. Thời Kỳ Hiện Đại
Nền văn hóa dân tộc Việt ngày nay đă bị lật ngược dưới thể chế nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa từ giáo dục, học thuật, tín ngưỡng, xă hội, từ thiện, đạo đức. . . cả một truyền thống văn hóa tốt đẹp bị lung lay tận gốc rễ.
Ḥa Thượng Huyền Quang cũng đă nói:
“Đảng CS Việt Nam là đàn cháu chắt, là kẻ hậu sinh ăn trái rồi bẻ cành, nhổ gốc đập nát, uống nước đầu nguồn rồi quấy phá tanh hôi.”
Tất cả những gia sản quư báu mang tính cách lịch sử, những cái hay, cái đẹp của đất nước đă bị nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa phá hủy, đập bỏ, hầu hết những đồ cổ của các Bảo Tàng Viện đă không cánh mà bay ra nước ngoài chỉ v́ những lợi nhuận cá nhân. Đây chỉ là một phần nhỏ của lănh vực nghệ thuật điêu khắc hội họa. Dưới sự lănh đạo của những đỉnh cao trí tuệ bần nông nền giáo dục, đạo đức, lễ nghi, hiếu kính đă bị đẩy sâu xuống bến bờ vực thẳm để tạo nên nạn thất học, trẻ em bị tung ra ngoài xă hội bươi móc từng đống rác nhặt giấy rách, ve chai để phụ giúp cho sinh kế gia đ́nh; nạn trà dư tửu hậu của những người quyền thế lấn áp quần chúng nghèo khó tạo nên những tệ nạn xă hội và nạn quan liêu tham nhũng đă làm ung thối đất nước. C̣n tôn giáo, từ thiện th́ sao? Tín ngưỡng không c̣n được tôn trọng, họ đă chà đạp, đàn áp, bắt bớ tù đày những người đấu tranh v́ dân, v́ nước. Từ những sự suy sụp trầm trọng của ngôi nhà tâm linh, đạo đức, đă kéo theo luôn nền văn hóa, văn học nước nhà lún xuống vực sâu.
Lương dân bị bức hại, nhân quyền bị chà đạp, vận mệnh quốc gia dân tộc là trọng mà nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa c̣n không quan tâm xây dựng hà huống ǵ là tôn giáo? Do vậy, cùng chung số phận với đất nước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đă bị bức tử để nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa thành lập Giáo Hội Nhà Nước, là một bộ phận cơ chế đảng CSVN. Vậy th́ nói đến nền văn hóa dân tộc Việt và ḍng sinh mệnh Phật giáo vào thời hiện đại, chúng ta phải nói cái ǵ? Nói cái bất công và nô lệ? Nói cái tệ trạng xă hội: sự nghèo đói, băo lụt, nhà trôi mất của? Nói đến sự ngu dốt, bần cùng mà nhà nước quan liêu đă không chấn chỉnh vực dậy những ǵ đă sa sút? Nói đến tín ngưỡng bị chà đạp và đảng phái hóa nhân sự Giáo Hội Nhà Nước? Nói đến sự lũng đoạn, thao túng cài người làm t́nh báo công an? Văn hóa là sự trong sáng và sáng tạo của con người, là nếp sống với tập tục thanh cao, là những lời hay ư đẹp của một con người, là đời sống có nhân, có nghĩa, biết trên biết dưới, t́nh người thuần hậu nhân bản. Văn hóa là nền tảng của đất nước được thành tựu bởi từng cá nhân đóng góp bằng t́nh cảm thương yêu, bằng lời nói nhă nhặn lịch sử, bằng cử chỉ lễ độ, bằng tấm ḷng lịch nghiệm bao dung, bằng tư cách phong thái đạo đức thiện mỹ. Từ đó, nền văn hóa dân tộc được đượm nhuần tươi mát, và trưởng thành sức sống thực, sống đẹp, sống tinh khôi. Do vậy, thế hệ người hiện tại phải ư thức sự tồn vong của nền văn hóa cổ truyền nước nhà để bảo tồn và xây dựng những cái hay cái đẹp. Sử gia Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, quyển 2, trang 353, đă nói:
“Mặc dù nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn độc lập, nhưng sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào? Song người bản quốc phải biết rằng, phàm sự sinh tồn của một nước, là ở cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố gắng của người trong nước, vậy ta phải hết sức mà học tập, mà giữ cái tâm trí cho bền vững th́ chắc chắn tương lai c̣n có nhiều hy vọng. Nước Việt Nam ta đă có cái văn hóa chẳng thua kém ǵ ai, và lại có một lịch sử vẻ vang, nếu ta biết lợi dụng cái tiềm lực cố hữu và cái tính thông minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến hóa, th́ sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch sử mỹ lệ hơn trước?”
Đây là ước vọng chung của con dân Việt Nam, hăy cùng nhau dệt nên tấm thảm văn hóa nhiều mầu sắc, trân quư cho quê hương dân tộc, mà không là tiếp tay với những ai vong thân, vọng ngoại để đánh mất nền văn hóa giống ṇi.
Sự góp phần những giọt nước để tạo thành những gịng sông văn hóa do tất cả mọi người đều thực hiện, không miễn trừ một ai, chỉ khác nhau là kẻ nhận thức ra hay kẻ không nhận thức ra. Và dĩ nhiên những phần đóng góp này cũng khác nhau, góp nước trong và góp nước đục lẫn cả đất bùn rác rến, bẩn thỉu tanh hôi. Nhận thức ra sự góp phần này, chúng ta ai cũng biết là nên góp phần nước trong, không nên góp phần nước đục, th́ gịng sông sẽ trong, nhiều người góp phần nước đục th́ gịng sông sẽ đục. Hơn nữa, gịng sông luôn luôn chảy, không có gịng sông nào hoàn toàn trong hay hoàn toàn đục. Cũng không có sự trong hay đục nào thường hằng vĩnh cửu, sự gạn đục khơi trong là sự kiện trong tầm tay của tất cả con dân đất nước, đạt được hay không chỉ là vấn đề thời gian và mọi người cùng có ư thức, cùng nhiệt tâm bắt tay bảo nhau cùng làm hay không? Đó là nghĩa vụ phải làm, Nghĩa Vụ Văn Hóa, con dân đất nước phải lo làm tṛn đối với dân tộc. - (Văn Hóa Việt Nam - Duyên Hạc Lê Thái Ất - trang 464, Đốc Sự 17 Quốc Gia Hành Chánh xuất bản năm 1999. )
Ba thập niên ở miền Bắc và hơn hai thập niên ở miền Nam, nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đă làm gịng sông văn hóa dân tộc bị vẩn đục và ô nhiễm. Lư do, là v́ họ góp quá nhiều nước đục từ tư tưởng ngoại lai Maxism-Léninism. Chủ trương đấu tố, giết hại thành phần địa chủ rập khuôn theo Trung quốc đă làm cho đất nước dân tộc điêu linh, thống khổ, th́ làm ǵ có cái đẹp, cái hay, cái trong sáng trong chủ nghĩa tàn độc đó. V́ thế, trong trách nhiệm và bổn phận của con dân nước Việt, chúng ta hăy cùng góp phần chấn chỉnh lại nề nếp gia phong để tạo thành sinh lực và tác động văn hóa vào ḷng quê hương, cứu văn lại nền văn hóa cổ truyền tốt đẹp của cha ông đă dần dần băng hoại, giữa lúc cả thế giới ngày càng lớn mạnh.
Thế hệ người Việt chúng ta hôm nay, nếu không kịp thời thức tỉnh để tạo dựng và tựu thành nền văn hóa tiến bộ cho nước nhà th́ chắc hẳn rằng quê hương sẽ đắm ch́m trôi chảy trong gịng văn hóa suy đồi của chủ nghĩa ngoại lai, để rồi nền văn hiến hơn 4000 năm của cha ông để lại sẽ không c̣n, mà văn hiến không c̣n th́ văn minh cũng không có và văn minh không có th́ văn hóa chỉ là cái xác không hồn, tinh hoa văn hóa bị hủy diệt.
Tóm lại, nền văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện tại từ năm 1975 đến nay vô cùng đen tối, đạo pháp và quê hương đang gánh chịu một đại thảm họa chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt.
IV. Thời Hải Ngoại
Kể từ sau biến cố 1975, làn sóng người Việt tị nạn lưu lạc trên khắp thế giới, bằng mọi phương tiện vượt biên, vượt biển đă mang theo tinh hoa đất nước bay đi khắp nơi, từ những người dân cần cù lam lũ, đến những thành phần khoa bảng trí thức, các giới văn nghệ sĩ, các thành phần quân, cán, chính của quốc gia cho đến các chư Tăng Ni cũng có mặt trong đoàn người tha hương này. Những con tàu vượt biển này đă lao lung cùng băo tố, sóng to biển cả, có chuyến may mắn được đến bến bờ b́nh an, có chuyến cũng đắm ḿnh ch́m sâu dưới ḷng đại dương. Luân lưu trên quê hương thứ hai nơi các trại tị nạn, người dân Việt và Phật giáo vẫn tiếp tục giữ ǵn truyền thống văn hóa giống ṇi, chùa chiền được tạo dựng để tiếp tục những sinh hoạt tôn giáo. Các Tăng Ni đă xây dựng những ngôi chùa bằng những phương tiện eo hẹp để giữ nếp sinh hoạt của chốn Thiền môn, sớm công phu, chiều bái sám, thuyết giảng và tổ chức những buổi lễ truyền thọ tam quy, ngũ giới, hướng dẫn người Phật tử tu tập và giữ đúng nếp Phật sự như ở quê nhà. Ngay cả các tổ chức Gia Đ́nh Phật Tử cũng tiếp tục sinh hoạt theo phương hướng và nội quy của tổ chức như trước kia. Các em vẫn tự khép ḿnh theo quy chế và tạo được những sinh hoạt phong phú cho đời sống trong trại tị nạn chứ không bị sa sút, g̣ bó, áp bức trong ách thống trị như tại quê nhà. Đây là một giá trị đặc thù mà tưởng như hai chữ văn hóa đă luôn sống và tuôn chảy trong huyết quản của từng người dân Việt, dù bất cứ hoàn cảnh và môi trường nào.
Qua những ngày lễ hội Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên Đán là những thời gian làm sống dậy lễ nghi, tinh thần hiếu thảo và những tự tính của người dân Việt Nam. Dẫu biết rằng đời sống ở trại tị nạn thiếu thốn về mọi mặt, nhưng người dân Việt không thiếu thốn đời sống tâm linh hay nếp sống của nền văn hóa xa xưa tốt đẹp mà tổ tiên cha ông đă gây dựng tự lâu đời, để đàn con cháu dù tha hương đến góc bể chân trời nào vẫn tự nhớ lấy cội nguồn mà thi thiết theo hoàn cảnh, theo khả năng hiện có. Ba ngày Tết đến cũng thấy có cây nêu, phong pháo, phướng đỏ dựng trước sân, cũng có bánh chưng, bánh tét, trái cây dưa hấu, mâm cơm trên bàn thờ gia tiên để nhớ đến công đức tiền nhân; cũng có những bao ĺ x́ tươi thắm; cũng háo hức lễ chùa cúng Phật đầu năm; cũng tíu tít chúc mừng nhau phước thọ tăng long, sống lâu trăm tuổi; cũng xim xăm, hái lộc đoán vận mệnh công danh... Và cũng trong những ngày lễ hội Vu Lan - Mùa Báo Hiếu - đàn con cháu tề tựu quây quần thể hiện tinh thần hiếu kính chúc thọ các bậc sinh thành, ông bà nội ngoại không khác ǵ đời sống quê nhà trước năm 75. Và để rồi tâm tư được gợi nhớ lại những người bạn láng giềng bên hàng dậu thưa, bên lũy tre xanh, mời nhau miếng bánh mới làm, miếng trầu mới têm. Nói chung, và cũng thiết nghĩ rằng, dù chỉ là cuộc sống tạm cư, nhưng người Việt đă không đánh mất hay lăng quên đời sống văn hóa tốt đẹp như câu tục ngữ: Cây có cội, nước có nguồn, chim có Tổ, người có Tông. Bằng sự phát triển và tiếp nối ḍng sinh mệnh đó, đạo Phật Việt đă ḥa nhập vào nếp sống người dân theo mỗi hoàn cảnh, tùy duyên hóa độ, bất biến để giữ bản hoài cửu tế chúng sinh. Trong hoàn cảnh đó, người Tăng sĩ phải biết ḥa nhập vào ḍng đời để thể hiện lư tưởng Thượng Cầu Hạ Hóa, theo bước chân người tị nạn. Từ giá trị đó, chúng ta có thể hiểu, nơi nào có sự sống của người dân Việt, nơi đó có mặt của đạo Phật Việt, hay nơi nào có đời sống văn hóa dân tộc Việt Nam, th́ nơi đó có nền văn hóa đạo Phật Việt Nam.
Để tài bồi mạch nguồn sự sống, và nối dài đôi tay tạo dựng của một giống ṇi, dân tộc Việt Nam đă dừng chân đứng lại trên các quốc gia định cư, và nơi đây, giống dân Lạc Việt đă thể hiện nền văn hóa sống, có thể tạm ghi qua mười tiểu mục:
1. Cộng đồng người Việt Nam quy tụ sống chung với nhau.
2. Sinh hoạt chung với cộng đồng người dân bản xứ.
3. Người Việt Nam đă góp mặt trong những cơ chế chính quyền.
4. Một số học sinh Việt Nam xuất sắc - thần đồng - trong các trường văn hóa và quân đội nổi tiếng của Hoa Kỳ.
5. Mở trường dạy Việt ngữ để bảo lưu nền văn hóa, giữ ǵn ngôn ngữ Việt Nam.
6. Các cơ quan truyền thông, báo chí được thành lập và cập nhập.
7. Cộng đồng Phật tử giữ vững niềm tin Tam Bảo và hộ pháp một cách đắc lực.
8. Xây dựng cơ sở giáo dục, đời sống tâm linh: Tự Viện, Tu Viện trong từng địa hạt người Việt Nam cư ngụ.
9. Tổ chức những khóa tu học Phật pháp, trau dồi kiến thức Phật pháp và thăng hoa giá trị sống thánh thiện.
10. Người dân Việt Nam luôn nhớ về cội nguồn - quê Cha, đất Tổ - Việt Nam Một Ngày Về - Ư Thức Dân Tộc.
Nói chung, về mọi phương diện, cộng đồng người Việt tị nạn đă tương đối thành tựu từ văn hóa, chính trị, thương mại hay giáo dục, tôn giáo, xă hội. . . đă có một bước tiến khá dài trên quê hương định cư này.
Điểm qua một vài lănh vực nổi bật mà người Việt Nam thể đạt một cách rực rỡ, đă làm người dân bản xứ nghiêng ḿnh thán phục, tài năng và trí thông minh hiếm có trong lănh vực giáo dục, khoa học kỹ thuật, tác giả Duyên Hạc Lê Thái Ất trong Văn Hóa Việt Nam (trang 206, xuất bản năm 1999), đă nêu lên một vài thí dụ điển h́nh:
Giới trẻ đi học chiếm tỉ lệ khá cao, số tốt nghiệp đại học càng ngày càng đông, một số nổi tiếng là thần đồng, tại các trường danh tiếng Hoa Kỳ.
- Trường hợp đặc biệt là Nguyễn Tuệ đă đậu trong 7 năm liền 7 bằng cấp, gồm 6 cử nhân và 1 tiến sĩ, phá kỷ lục tại trường MIT (Massachusettes Institute of Technology) trường Đại Học Kỹ Thuật danh tiếng nhất Hoa Kỳ.
Nguyễn Tuệ sinh năm 1962, thanh niên tị nạn đến Hoa Kỳ năm 16 tuổi, sau 10 năm học tập đă đạt thành kết quả vượt bực, được giới báo chí vinh danh là siêu học giả.
- Khoa học gia không gian Nguyễn Xuân Vinh đă lập ra lư thuyết quỹ đạo tối ưu, nghĩa là t́m ra đường gần nhất từ địa cầu đến mặt trăng, có tác phẩm giá trị về không gian học Optimal Trajectories in Atmospheric Flight xuất bản năm 1981 (tạm dịch: Những Quỹ Đạo Tối Ưu Cho Đường Bay Không Gian)
- Phi hành gia không gian Eugene H. Trịnh đă bay nhiều lần, lần đầu tiên năm 1991, để nghiên cứu sự rơi của chất lỏng trong chân không.
- Tiến sĩ Hóa học phóng xạ Phan Viết Phùng tức Peter Phùng đă góp công vào việc nghiên cứu áp dụng nguyên tử năng vào kỹ nghệ và y khoa.
- Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương, năm 1975, đă thành công sáng chế được một hệ thống quang tuyến X, mang tên Xuong's Machine, dùng để khảo sát tinh thể protéin ở cả 3 chiều, có khả năng phóng to lên 100 triệu lần. Máy đă được Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ công nhận và được coi là máy tiến bộ nhất thế giới hiện này, rất hữu ích trong việc điều trị hai bệnh nan y là ung thư và liệt kháng (AIDS).
- Khoa học gia Hoá học Trương Kế An tại Pháp đă thành công với 38 bằng sáng chế, đặc biệt là xăng đặc, được đánh giá như mở đầu cho một thời đại mới của văn minh nhân loại, sau các thời đại nguyên tử, hỏa tiễn và điện toán.
Song song với sự thành đạt của xă hội bên ngoài, về lănh vực tôn giáo, Phật giáo một phần nào nhịp nhàng phát triển đáp ứng được với nhu cầu đời sống tâm linh, về phương diện cơ sở, các ngôi tự viện được xây dựng hầu như khắp các địa bàn hoạt động của các quốc gia, nơi có sự hiện diện của cộng đồng người Việt, đều có h́nh bóng của các mái chùa đủ tầm cỡ để chuyên chở nền văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc Phật giáo Việt Nam - và cũng dưới những mái chùa này đă vực đứng lên bao tâm hồn đau khổ, bi thương, vỡ nát niềm tin và những khủng hoảng tinh thần v́ kinh qua các biến cố thời đại của người dân mất nước.
Về phương diện tư duy, thực nghiệm th́ những Tự Viện là nơi hoằng pháp lợi sanh, là chốn bảo tŕ nền văn hóa Việt. Ở đấy, thế hệ tuổi già có nơi niệm Phật, làm công quả để vun trồng công đức cho nếp sống tâm linh, và cũng ở đấy, là nơi cho các em cùng trau dồi tiếng Việt, cùng t́m hiểu văn học sử nước nhà, cũng là nơi gặp gỡ chung của mọi tầng lớp, mọi thế hệ.
Tóm lại, nền văn hóa của dân tộc và gịng lịch sử của Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền với nhau trên lẽ sống c̣n thịnh suy. Suốt một chiều dài lịch sử đó, dân tộc Việt cũng có lúc thăng trầm, quê hương có khi thanh b́nh, có lúc loạn lạc, nhưng chưa có lúc nào người dân Việt Nam đánh mất nền văn hóa của ḿnh để bị lệ thuộc hay bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai kể cả thời kỳ hơn 1000 năm Bắc thuộc, hơn 100 năm bị người phương Tây đô hộ, cũng không làm cho nền văn hóa Việt bị suy giảm, hao ṃn; mà lắm khi c̣n làm nổi bật ư thức: Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức tôi trung để nền văn hóa nước nhà càng có thêm bề dày và chiều sâu vững chắc.
Hôm nay, tầng lớp người đang sống nơi Hải ngoại có quan tâm đến giới trẻ của chúng ta? Những thế hệ được sinh ra và trưởng thành trong nền văn hóa này: Nền văn hóa Tây Phương tiến bộ về Cơ khí Vật chất, nền văn hóa Khoa học Thực nghiệm. Nếu chúng ta không có mục tiêu dẫn khởi và tập chú cho giới trẻ, th́ có e rằng họ sẽ bị nền văn hóa bản xứ xâm chiếm trọn tâm tư và cuốn họ hướng về một phương trời nào khác, và từ đó họ sẽ đánh mất cội nguồn, văn hóa dân tộc nơi chính họ. Đây có thể là một vấn đề nghiêm trọng để chúng ta suy tư về những thế hệ tương lai.