PHẬT GIÁO VÀ NGƯỜI HY-LẠP
Đào Viên
East is East, and West is West, and never the twain shall meet
Rudyard Kipling
(Kỳ 2 - tiếp theo và hết)
4. Cuộc đối thoại giữa vua Di Lan Đà và Tỳ Kheo Na Tiên
Cuộc tham vấn này đă được ghi chép lại để trở thành một một bản kinh rất nổi tiếng trong giáo lư Nguyên Thủy mà hầu hết Phật tử đều biết. Bản kinh tiếng Pali gọi là “Milindapanhà”: Milinda là tên vua Menander, hay Di Lan Đà; panhà là hỏi, Minlindapanhà là vua Di Lan Đà hỏi. Bản Kinh chữ Hán gọi là “Na Tiên Tỳ Kheo Kinh”. Hai bản Pali và Hán tạng có đôi chút khác biệt nhưng cơ bản th́ như nhau. Ngài Ḥa Thượng Thích Trí Thủ(1) đă giới thiệu bộ Kinh này như sau:
“Na Tiên Tỳ kheo Kinh là một bộ Kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lư Nguyên Thủy. Nhưng nếu chỉ có thế thôi th́ Kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không đáng được có một địa vị Tam Tạng Thánh Giáo.
Đặc sắc của Kinh này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Đặc sắc của nó là chính ở những ví dụ rất khế lư và khế cơ mà Ngài Na Tiên đă khéo sử dụng để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lư căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do Ngài sáng chế để đóng góp vào chánh pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.”
Tiểu sử của vua Menander (hay Di Lan Đà) đă dược tŕnh bầy nơi trên
Tiểu sử của Ngài Na Tiên, căn cứ vào phần một của Na Tiên Tỳ kheo Kinh, hoặc quyển I của Milindapanhà, đại khái như sau:
Ngài sanh tại làng Casangala (có nơi viết là Kajangala), dưới chân núi Hy Mă Lạp, ở vùng Tây bắc Ấn Độ, trong một gia đ́nh Bà La Môn mà thân phụ tên là Sonattara. Theo bản Hán dịch th́ làng này thuộc nước Kế Tân (Kashmir). Ngài xuất gia thọ giáo với La hán Lâu Hán (Rohana), từng được bổn sư cho tháp tùng để học đạo và du hóa tại các Chùa trên núi Hy Mă Lạp. Tiếp theo, Ngài được gửi đến thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt (Assagutta) tại Chùa Hộ Tân (Vattaniya). Trong thời gian thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt, nhân một thời pháp nói cho một lăo tín nữ nghe, cả Ngài và lăo tín nữ bổng nhiên được pháp quả “nhăn tịnh“, và cả hai cùng chứng đắc sơ quả “Dự lưu” mà siêu phàm nhập Thánh. Sau đó, Ngài được La hán Át Bá Nhựt cho đông du, đến thọ giáo với La hán Đạt Ma Ra Khi Ta (Dhammarakhita) tại Chùa A-Dục (Asokàrama) ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Ngài thông suốt Tam Tạng Thánh Giáo và chứng quả A La Hán tại đây. Từ đó, tiếng tăm lừng lẫy, Ngài đi giáo hóa khắp đó đây. Cuối cùng, Ngài dừng chân tại Chùa San Khế Da (Sankkheyà) ở thủ đô Xá Kiệt (Sagala) trong vùng thượng lưu Ngũ Hà (Punjab). Tại đây, Ngài gặp Vua Di Lan Đà, trước đó đă quy y với trưởng lăo Dă Ḥa La (Ayupàla) mà nhà Vua đă nhiều lần đến hỏi đạo và không mấy được thỏa măn. Sự tương ngộ giữa Di Lan Đà và Ngài là đầu mối của Kinh Milindapanhà hay Na Tiên Tỳ kheo Kinh.
H́nh vẽ Tỳ kheo Na Tiên (Nagasena) và Vua Di-Lan-Đà (Menander)
Kinh Milindapanhà tiếng Pali hay Na Tiên Tỳ kheo Kinh chữ Hán khá dài v́ cuộc tham vấn của vua Menander với nhà sư Nagasena hay Tỳ kheo Na Tiên, có trên 240 câu vấn đáp.
Ở đây chúng ta sẽ chỉ xem 3 câu hỏi đầu, tiêu biểu cuộc đối thoại lư thú đầy hương vị giáo lư Nguyên Thủy, trich từ bản dịch của Ḥa Thượng Giới Nghiêm(2) (Maha Thera Thita Silo) từ Kinh Milindapanhà tiếng Pali.
“a. Câu hỏi thứ nhất về Danh
Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-Tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:
- Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?
Tỳ kheo Na-tiên đă quan sát vị vua hữu danh đă từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, v́ ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn ǵ khi nhiếp phục đức vua này.
Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:
- Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.
- Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hăy nghe đi.
- Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hăy nói đi!
- Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.
- Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.
- Ngài đáp như thế nào?
- Đại vương hỏi như thế nào?
Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường… đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô “lành thay!” vang rền như sấm dội.
Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:
- Bạch đại đức, ngài tên ǵ?
- Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-Tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. C̣n cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-Tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên ǵ đi nữa th́ nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ ǵ đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có ǵ là “tôi” là “của tôi” như ngă chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rơ!
Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:
- Xin tất cả các vị hăy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-Tiên vừa nói rằng, cái tên Na-Tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái ǵ là Na-Tiên ở đấy, chẳng có ǵ là “tôi” và “của tôi” cả. Mọi người nghe rơ rồi đấy chứ?
Rồi quay sang tỳ kheo Na-Tiên , đức vua phản vấn:
- Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là “ta” và “của ta” th́ những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v… th́ ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai tŕ giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm ǵ cả! Và như vậy th́ nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, ḥa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-Tiên là ǵ đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-Tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rơ rồi đấy chứ.
- Tâu đại vương! Bần tăng nghe rơ rồi!
- Người nghe đó có phải là Na-Tiên chăng?
- Tâu, không phải.
- Chẳng có ǵ là Na-Tiên cả sao?
- Vâng, chính thế!
- Tóc, lông, móng, răng da… kia là Na-Tiên sao?
- Tâu, đại vương, không phải.
- Thịt, tủy, gân, xương là Na-Tiên chăng?
- Thưa, không phải!
- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-Tiên chăng?
- Tâu, Đại vương, không phải.
- Hay lục căn: nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư là Na-Tiên?
- Tâu, không phải thế.
- Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-Tiên?
- Tâu, cũng chưa chắc là vậy.
Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:
- Bạch đại đức! Hồi năy giờ trẫm đă cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v… có phải là Na-Tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. V́ khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, th́ chẳng có cái ǵ được gọi là Na-Tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-Tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quư vị hăy làm chứng cho trẫm đấy nhé!
Đại đức Na-Tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, ḷng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói ǵ ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng ḷng từ.
Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-Tiên mới chậm răi nói:
- Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng v́ tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?
- Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!
- Thế ra đại vương tới đây bằng xe.
- Vâng, trẫm đến bằng xe.
Đại đức Na-Tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:
- Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hăy xác nhận cho: đức vua đă nói rằng ngài đến đây bằng xe!
Rồi quay sang đức vua, ngài Na-Tiên hỏi lại:
- Đại vương bảo rằng đại vương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?
- Chắc chắn là thật.
- Vậy đại vương hăy nói cho rơ về cái xe ấy! Cái ǵ gọi là xe? Cái gọng chăng?
- Không phải.
- Hay cái trục, cái bánh là xe?
- Cũng không phải.
- Cái thùng, cái mui là xe chăng?
- Chẳng phải đâu.
- Hoặc roi, dây cương là xe?
- Chẳng phải.
- Thế chắc cái ách, căm xe?
- Không phải nốt.
- Vậy cái ǵ là xe?
Đức vua Mi-lan-đà im lặng.
Đại đức Na-tiên cất giọng chậm răi:
- Tâu đại vương! Bần tăng đă đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái ǵ là xe th́ đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái ǵ được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đại vương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hăy làm chứng cho!
Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-Tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng th́ cung thỉnh đức vua t́m cách luận thắng đối phương.
Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:
- Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hăy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v… nếu nằm riêng lẻ th́ không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại th́ giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?
- Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn… nếu chúng nằm riêng lẻ th́ làm sao được gọi là Na-Tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại th́ giả danh gọi là Na-Tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-Tiên th́ đâu phải lời nói dối?
Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết ḷng tán thán đại đức Na-Tiên:
- Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?
Cả đại giảng đường vang lên tiếng “lành thay, lành thay” làm chấn động cả kinh đô Sàgala.
b. Câu hỏi thứ Hai về con số Hạ lạp
Để cho không khí im lắng lại một lúc, đức vua hỏi tiếp:
- Đại đức năm nay được bao nhiêu hạ lạp rồi?
- Thưa, bần tăng tu mới được bảy hạ.
- Con số 7 ấy là đếm luôn cả đại đức vào trong, hay là chỉ đếm cái hạ không thôi? Con số 7 ấy là con số của đại đức hay con số của hạ?
Khi ấy, đức vua đang mặc y phục vương giả với những đồ trang sức quư báu, cái bóng sáng rỡ của ngài rọi vào trong chai đựng nước ai cũng trông thấy rơ ràng. Đại đức Na-Tiên đưa tay chỉ, rồi hỏi ngược lại rằng:
- Tâu đại vương! Cái bóng với đồ trang sức rực rỡ trong chai nước kia là đại vương, hay người đang đối thoại với bần tăng đây là đại vương?
- Trẫm đây mới thật là trẫm, c̣n cái bóng kia nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi trẫm.
- Cũng thế, tâu đại vương! Số 7 kia là số hạ lạp chứ không phải bần tăng, nhưng nó có được là do nương gá nơi bần tăng. Nó có là bởi bần tăng.
- Hay lắm! Quả thật đúng như vậy! Cục đá quăng qua th́ cục ch́ ném lại. Thật thú vị làm sao!
c. Câu hỏi thứ Ba: Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?
Sau hai câu hỏi mở đầu, đức vua biết là gặp được bậc trí tuệ, nên ngài muốn đi sâu vào giáo pháp, bèn ướm lời:
- Bạch đại đức! Trẫm rất thích đàm đạo với đại đức về nhiều vấn đề khác nữa, nhưng không rơ đại đức có hoan hỷ không?
- Tâu đại vương! Cái đó c̣n tùy thuộc nơi đại vương! Nếu đại vương đàm thoại mà lấy tư cách một Trí giả (Panditavàda), th́ bần tăng sẵn sàng hầu đáp. Nhưng nếu đại vương đứng trên tư cách ḿnh là bậc Vương giả (Ràjavàda), th́ xin thưa thẳng, bần tăng sẽ không thể hầu đối được.
- Tư cách một Trí giả là như thế nào?
- Tâu đại vương! Phàm là Trí giả nói chuyện với nhau, bao giờ cũng nói lời ngay thật, muốn trao đổi hiểu biết, soi sáng hiểu biết cho nhau. Trong câu chuyện, nếu có những lư lẽ đưa ra, dù đúng, dù sai, dù cao, dù thấp, dù phải, dù trái v.v… các bậc Trí giả không bao giờ v́ thế mà phiền ḷng hay nóng giận. Họ tôn trọng nhau, dù ư kiến, tư tưởng có bất đồng chăng nữa. Thắng, bại không hề làm cho họ chau mày, mà chính chân lư, sự thật mới thuyết phục được họ. Nếu gặp phải đối phương là tay lợi trí, lợi khẩu, hùng biện đại tài, bậc Trí giả không v́ thế mà t́m cách cản ngăn, áp chế, bắt ngừng nói, đuổi ra khỏi chỗ ngồi; hoặc lươn lẹo dùng những xảo thuật miệng lưỡi, ngụy biện nhằm tranh thắng cho kỳ được! Đấy là cốt cách, phong thái đầy hiểu biết của bậc Trí giả, tâu đại vương!
Đức vua gật đầu mỉm cười:
- Đúng bậc Trí giả là vậy! C̣n tư cách của bậc Vương giả là thế nào, thưa đại đức?
- Tâu đại vương! Bậc Vương giả v́ quen sống trong quyền lực, nhất hô bá ứng, nên khi đối thoại thường quen áp đảo, bắt buộc kẻ khác chấp thuận quan điểm của ḿnh. Nếu có ai đó nói một câu không vừa ư, hoặc đối nghịch với tư kiến của ḿnh; bậc vương giả sẽ không hài ḷng, sẵn sàng dùng quyền uy của ḿnh mà bắt tội, chẳng dựa vào lẽ phải và công bằng. Những cuộc nói chuyện như thế rồi chẳng đi đến đâu, v́ thái độ và lối xử sự của các bậc Vương giả đă tự ngăn chặn con đường về với sự thật, đốt cháy mối cảm thông và cắt đứt sự hiểu biết. Đối thoại trong tư thế bậc Vương giả thường rơi vào một chiều, phiến diện và ngơ cụt như vậy đấy, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà lại gật đầu nữa:
- Hay lắm, thưa đại đức, trẫm đă hiểu rơ rồi. Trẫm chẳng thích cách nói chuyện của người Vương giả, trái lại, trẫm sẽ cố gắng xem ḿnh là người Trí giả để hầu chuyện với đại đức. Khi đối thoại, đại đức hăy quên cái hào nhoáng cao sang bên ngoài của trẫm đi, mà hăy tiếp xúc với chính con người của trẫm thôi. Đại đức cứ nói chuyện một cách tự nhiên, b́nh thường như đại đức nói chuyện với chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, cận sự nam, nữ v.v…; thậm chí như nói chuyện với người hộ tự, người quét rác, người nấu ăn trong ngôi chùa này cũng được vậy, trẫm không bắt lỗi ǵ đâu!
- Tâu đại vương! Ngài đă phán những lời rất cao quư, rất hay, rất đúng đắn, đúng là lời của một bậc minh quân vĩ đại nhất trên thế gian. Bần tăng rất khâm phục, và bần tăng sẽ rất hoan hỷ, thoải mái để hầu chuyện với Đại vương như là một bậc Trí giả
- Vậy đại đức hăy nghe Trẫm hỏi.
- Tâu, xin ngài cứ hỏi đi?
- Bạch, trẫm đă hỏi xong rồi.
- Thưa, bần tăng đă đáp rồi.
- Đại đức đáp như thế nào?
- Đại vương hỏi như thế nào?
Đức vua Mi-lan-đà v́ vui thích mà thử trí tuệ của đại đức Na-Tiên đó thôi, các câu hỏi này chỉ lặp lại, nhưng giảng đường th́ mọi người hoan hô, tán thán vang rân.
Đến đây đức vua bảo viên đại thần Devamantiya đến đảnh lễ đại đức Na-Tiên và xin mời ngài vào hoàng cung ngày mai.”
Đến cuối đời vua Menander, trong nước không được yên. Nhà vua lại phải đem quân đi đánh giặc. Menander đă bi chết trong một cuộc hành quân. Cái chết của nhà vua đă đem lại tiếc thương của cả nước. Theo Plutarch, sử gia Hy-Lạp, các bộ lạc trong nước tranh nhau dành ngọc xá lợi của nhà vua sau khi được hỏa táng.
Sau triều đại Menander, nhiều thế hệ con cháu người Hy-Lạp tiếp tục cai trị vùng đất vương quốc của Menander. Vương quốc này trở nên suy yếu, ảnh hưởng của văn minh Ấn-Độ ngày một gia tăng, trong khi những ǵ là giá trị Hy-Lạp nhạt dần trong xă hội. Sang đến cuối thế kỷ thứ 2 sau Tây Lịch, nghĩa là 350 năm sau vua Menander băng hà th́ người ta không c̣n thấy một cộng đồng Hy-Lạp đáng kể nào nữa.
5. Di Tích của người Hy-Lạp tại Ấn-Độ
Người Hy-Lạp đă để lại những ǵ sau cuộc gặp gỡ Đông Tây suốt trong chiều dài lịch sử, bắt đầu từ cuộc chinh phạt Đông tiến của vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế?
Nhiều người Hy-Lạp đă trở thành Phật Tử. Dù cho đến 500 năm sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo, người Ấn-Độ đă không h́nh dung ra được Đức Phật như là một thực thể con người. Kinh Phật chỉ chép lại Ngài có 32 tướng tốt với 80 vẻ đẹp. Trong các trụ đá, các hang động, h́nh tướng về Đức Phật chỉ là những bánh xe Pháp Luân, gốc cây Bồ Đề, hay cùng lắm là những vết chân mà người ta nghĩ là của Đức Phật.
Dấu chân Đức Phật - Tượng Đức Phật tóc xoăn, tai dài, vóc dáng theo chuẫn mực của thần Apollo Hy Lạp
Hy-Lạp, ngay từ thế kỷ thứ 5, thứ 6 trước Tây Lịch, đă có một nền văn minh khá cao, được các sử gia coi là nền văn minh cơ bản cho học thuật và văn hóa Tây phương, ảnh hưởng nhiều đến văn hóa La Mă và Âu Châu. Hy-Lạp đă có những nhà điêu khắc, dắp tượng rất giỏi mà tác phẩm c̣n lưu truyền măi đến bây giờ tại các viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới.
Không được trực tiếp nh́n Đức Phật, nghệ nhân Hy-Lạp đă tạc tượng Đức Phật như là một vị thần, đẹp trai, khỏe mạnh, thần Apollo, vị thần của ánh sáng, của trí tuệ. Những tượng đó, tóc xoăn, tai dài, vóc dáng Tây phương, lần lần trở thành những tượng Phật trong các chùa chiền tại nhiều nước ngày nay.
Đào Viên
Tài liệu tham khảo:
a) The awakening of the West- the Encounter of Buddhism and Western Culture của Stephen Batchlor
b) Nghiên Cứu Phật Học. Triết học Phật giáo- Kinh Na tiên Tỳ kheo viết bởi Cao Hữu Đính
c) Buddha Sasana – Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panhà)- Dịch Giả Ḥa Thượng Giới Nghiêm
Chú thích:
1) Ḥa Thượng Thích Trí Thủ, thế danh Nguyễn Văn Kính, sinh năm 1909, mất năm 1985, 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo, là một cao tăng thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Ngài đă xuất gia thọ giới năm17 tuổi với Hoà Thượng Viên Thành, chùa Trà Am, Huế. Năm Ngài 20 tuổi (1929), được Bổn sư cho vào thọ giới Cụ Túc (Tỳ Kheo) tại Đại giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng. Ngài đă dẫn đầu nhiều phái đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam tham dự Đại hội Phật Giáo Quốc Tế.
2) Ḥa thượng Thích Giới Nghiêm (Thitaślamahathera), thế danh Nguyễn Đ́nh Trấn, sinh ngày 5/5/1921 tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngài xuất thân trong một gia đ́nh có truyền thống đạo đức lâu đời, tại một quê hương nghèo khổ, nhưng lại phát tích rất nhiều tu sĩ và cao tăng thuộc cả hai truyền thừa Nam Bắc tông. Chỉ riêng trong gia đ́nh, bác của Ngài – Ḥa thượng Thích Phước Duyên – và chú của Ngài đều là bậc xuất gia. C̣n vị thân sinh – Ḥa thượng Thích Quang Diệu (Nguyễn Đ́nh Tải) – sau nửa cuộc đời lập gia đ́nh với mẹ của Ngài là cụ bà Huỳnh Thị Thành, cũng xuất gia, sống đời phạm hạnh.