Thư ṭa soạn số 157
(tháng 12.2024)
BỒ-ĐỀ NGUYỆN
Nguyện là lư tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành tŕnh. Nó được phát sinh từ quá khứ (hay chỉ mới phát khởi trong hiện tại) và khi được quán niệm trong hiện tiền th́ việc quán niệm này được gọi là chánh niệm [1]. Chánh niệm không đơn giản chỉ là biết hay nắm giữ cái hiện tại, quán sát cái ǵ ngay bây giờ (thời gian) và ở đây (không gian); mà là sự nhận thức hay chứng thực toàn vẹn về cái đương hiện, dù đó là nguyện, là danh hiệu, đề mục, biểu tượng, ấn tượng hay đối tượng của ư thức (pháp) [2]. Suy ra, các phương pháp thiền quán, tŕ danh, tham công án, khán thoại đầu [3], đều có thể được xem là Chánh niệm—một trong Tám chi Thánh Đạo [4], giai đoạn chuẩn bị để đi sâu vào thiền định.
Bồ-đề nguyện là lư tưởng, là chí nguyện cao đẹp, là mục đích của con đường Bồ-tát (Bồ-tát đạo). Con đường ấy dẫn đến mục tiêu tối hậu là đại giác ngộ (Trí tuệ) và cứu độ chúng sinh (Từ bi). Bồ-đề nguyện nếu không được duy tŕ, trưởng dưỡng hàng ngày th́ sẽ bị phai nhạt, hoặc tiêu tăm vùi lấp trong lớp bụi dày của phiền năo và hành nghiệp.
Bồ-đề nguyện được đặt trên nền tảng của Trí tuệ và Từ bi. Không có Trí tuệ th́ không thể thấu suốt con đường, và không thể nhận biết (hoặc quên bẵng) mục đích của cuộc hành tŕnh là ǵ. Không có Từ bi th́ không có chất liệu xúc tác cho đại nguyện lợi ích chúng sinh; không có tác động mạnh mẽ phi thường để làm được những điều khó làm.
Hành giả bước đi trên con đường Bồ-tát, nếu vô trí, không phân biệt được đâu là thiện-ác, đúng-sai, chánh-tà th́ cần phải quay về, quán sát tự tâm: nếu ư nghĩ, lời nói và hành động của ḿnh nghiêng hẳn về phía xấu-ác th́ chắc chắn đă lạc vào tà kiến.
Hành giả bước đi trên con đường Bồ-tát, nếu vô cảm, không rung động trước nỗi khổ của tha nhân, của số đông, mà chỉ biết a ṭng và ủng hộ việc làm của những kẻ đại ác, quỷ quyệt, ích kỷ, vô luân... th́ chắc chắn đă lạc vào tà đạo.
Bồ-đề nguyện nếu được liên tục nuôi dưỡng, trong chánh kiến, chánh niệm, sẽ dẫn hành giả đi suốt con đường Bồ-tát, đi suốt cuộc hành tŕnh dài lâu ngang qua cuộc sống này và nhiều kiếp sống sau. Nhưng một khi v́ vô minh hoặc phóng dật [1] mà lăng quên Bồ-đề nguyện, sẽ dễ lầm lạc, buông lung, khó có thể quay lại để tiếp tục cuộc hành tŕnh.
Duy tŕ và trưởng dưỡng Bồ-đề nguyện bằng sự tu tập miên mật và tận tụy thực hiện những điều lợi ích chúng sinh (lợi hành, Bồ-đề hành); bước tới, bước tới măi, không thoái lui. Không cần biết khi nào sẽ đạt đến mục đích, v́ mục đích luôn ở ngay trong hiện tiền (chánh niệm). Ban đầu, thấy mục đích, con đường và bước đi là ba; nhưng bước đi liên tục và ở một giai đoạn nào đó trên cuộc hành tŕnh, sẽ thấy Bồ-tát đạo, Bồ-đề nguyện, Bồ-đề hành là một.
Một pháp, nhất tâm, nhất hướng, không bến bờ nào mà không chạm đến, không thời gian nào mà chẳng vượt qua.
_____________
(1) “Ta thường nói “chánh niệm”, với ư nghĩa “biết ḿnh đang làm ǵ”. Hiểu như vậy chưa đủ, mà cần hiểu thêm rằng, việc ta đang làm nhắm đến mục đích ǵ. Mục đích được dựng lên thuộc quá khứ, nhưng ấn tượng quá khứ ấy được gắn chặt ngay trước mắt, nên gọi là chánh niệm. Người đang đi, dù biết ḿnh đang đi nhưng không biết ḿnh đang đi từ đâu đến đâu, đấy không gọi là chánh niệm, mà là trạng thái buông lỏng, nó sẽ dẫn đến điều mà kinh điển thường gọi là “phóng dật” — buông thả ư không chịu kiểm soát nó.” (Tuệ Sỹ [1945 – 2023] Nguồn: Đạo Sinh)
(2) “Niệm (sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) v́ nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurūpa) cho một thiện gia nam tử xuất gia v́ ḷng tin, niệm có mặt trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm” (Thanh Tịnh Đạo Luận, Chương VII, Luận sư Phật Âm/ Buddhaghosa - Ni sư Trí Hải dịch). Có thể t́m đọc thêm về “Một Pháp” với Thập Niệm (Mười Tùy Niệm), gồm Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Chúng (Tăng), Niệm Giới, Niệm Thí, Niệm Thiên, Niệm Tịch Tĩnh, Niệm An Ban, Niệm Thân Vô Thường, Niệm Sự Chết (Tăng Nhất A-hàm Quyển 1, Thiên Một Pháp, Phẩm Thập Niệm, Thanh Văn Tạng Tập 10, Kinh Bộ X, trang 65 – 70; Hội Đồng Hoằng Pháp ấn hành 2022).
(3) Tham công án và khán thoại đầu được khởi xướng từ các thiền sư Trung Hoa, có thể bắt đầu từ Lâm Tế Nghĩa Huyền (đời Đường), truyền xuống Đại Huệ Tông Cảo (đời Tống); lấy nghi làm đối tượng quán tưởng, nghi nhiều ngộ nhiều (đại nghi đại ngộ). Thời cận đại, việc tham công án và khán thoại đầu không c̣n phổ biến, nhưng Tông Lâm Tế đă được thịnh hành từ đời Tống, truyền sang cả Nhật Bản và Việt Nam, duy tŕ đến ngày nay.
(4) Tám chi Thánh đạo (Bát Thánh Đạo Phần) hay Bát Chánh Đạo, gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
TRỞ LẠI TRANG HỘP THƯ T̉A SOẠN