MƯỜI NIỆM VĂNG SANH

Thích Đức Trí

 

 

1.    Nguyện thứ mười tám của Phật A Đi Đà

2.    Kinh luận liên quan Pháp mười niệm niệm Phật

3.    Mười Niệm Phật thành tựu văng sanh

4.    Tâm niệm Phật trước giờ lâm chung

5.    Lời kết

 

1-     Nguyện thứ mười tám của Phật A Đi Đà:

Hầu hết người học Phật tu theo pháp môn Tịnh độ, ai cũng biết đến đức Phật A Di Đà và bốn mươi tám lời nguyện vĩ đại hàm chứa đức từ bi vô lượng của ngài. Trong đó có đại nguyện thứ mười tám gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn của mọi người phát tâm niệm Phật. Nội dung lời nguyện như sau: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh th́ tôi chẳng lấy ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh Pháp.”[1]. Bổn nguyện cứu độ chúng sanh của Phật vô cùng rộng lớn, gây niềm tin vững chắc cho người tu niệm Phật phát nguyện sanh về cơi Tây Phương. Xuất phát từ ư nghĩa đó, từ xưa cho tới nay, pháp niệm Phật văng sanh và khuynh hướng hộ niệm người sắp lâm chung được phổ cập rộng răi trong sinh hoạt của mọi người tu theo pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, hiểu như thế nào về ư nghĩa mười niệm văng sanh là điều quan trọng để có thái độ tu học thiết thực trong đời sống này.

 

2-    Kinh luận liên quan Pháp mười niệm niệm Phật:

Liên quan Pháp mười niệm văng sanh xuất xứ từ trong hai kinh: Kinh Vô Vô Lượng ThọKinh Quán Vô Lượng Thọ. Điều chú ư là Kinh Vô Lượng Thọ nói: Người dù tạo ác nhưng niệm mười danh hiệu Phật hay “Nhẫn đến mười niệm”[2] nguyện văng sanh th́ được toại nguyện, chỉ trừ năm tội nghịch và hủy báng chánh Pháp. C̣n Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rằng: Người làm thập ác[3] năm nghịch[4], làm đủ hết các điều bất thiện niệm Phật hay “Xưng danh chẳng dứt mười niệm”[5] cũng được văng sanh. Như vậy, về vấn đề tội báo nhân quả và hạng người nào niệm Phật th́ được văng sanh? Nay người viết xin trích câu hỏi và đáp từ Luận giải như sau: “Hỏi rằng: Kinh Vô Lượng Thọ có nói: Người nguyện văng sanh, đều được văng sanh, chỉ trừ (các hạng làm) năm (tội) nghịch (và) phỉ báng chính pháp. (Nay) Kinh Quán Vô Lượng Thọ (lại) nói, làm năm nghịch, mười ác đủ hết các bất thiện, cũng được văng sanh. Hai kinh này (nói khác nhau như vậy), làm sao để hiểu? Đáp rằng: Một kinh (th́) cho rằng đủ hai loại tội nặng, một là năm nghịch, hai là phỉ báng chánh pháp, do v́ hai thứ tội này cho nên không được văng sanh. Một kinh (lại) chỉ nói làm mười ác, năm nghịch các tội, (chứ) không nói phỉ báng chính pháp, do v́ không phỉ báng chính pháp cho nên được văng sanh.”[6]

Chúng ta thấy, nội dung lời nguyện thứ mười tám, Kinh Vô Lượng ThọQuán Vô Lượng Thọ đều nhắc đến mười niệm Phật thành tựu th́ được văng sanh. Hai kinh đồng một ư nghĩa rằng, người đă từng làm mười điều bất thiện, năm nghịch tội đáng đọa vào địa ngục, nhưng nếu biết niệm Phật th́ được sanh về cơi Phật, chỉ trừ tội phỉ báng chánh pháp. Vậy tội hủy báng chánh pháp là như thế nào mà không được văng sanh? Luận giải thích rằng: “Nếu nói là không có Phật, không có pháp của Phật, không có Bồ Tát, không có pháp của Bồ Tát, các cái thấy như vậy, hoặc tâm (ḿnh) tự hiểu (như thế), hoặc nghe theo kẻ khác, (một khi) tâm (nghĩ) như thế (mà) quyết định (rồi), th́ đều gọi là phỉ báng chính pháp” [7]. Vấn đề ở đây không phải sức từ bi của Phật giới hạn mà nguyên lư nhân quả  và cơ duyên thành tựu pháp văng sanh không thực hiện được.

 

3-    Mười Niệm Phật thành tựu văng sanh:

Kinh luận trong giáo lư Tịnh Độ hầu hết là phổ biến nội dung Niệm Phật, nhưng pháp mười niệm văng sanh và một niệm văng sanh được Phật thuyết rơ trong Kinh Vô Lượng ThọQuán Vô Lượng Thọ. C̣n Kinh A Di Đà Đức Phật dạy thời gian Niệm Phật là một đến bảy ngày và nhất tâm bất loạn lúc lâm chung sẽ được Phật A Di Đà và thánh chúng tiếp độ về cơi Tây Phương. “Nhất tâm bất loạn”, nhất tâm dứt trừ vọng tưởng, bất loạn là tâm tư không c̣n điên đảo. Vấn đề là chất lượng một niệm và mười niệm được văng sanh phải đồng nghĩa với “Nhất tâm bất loạn” Phật thuyết trong kinh A Di Đà.

Niệm là ǵ, thời gian một niệm bao lâu? Luận chú giải thích rằng: “Cứ 101 lần sinh diệt gọi là một sát na, 60 sát na gọi là một niệm. Nói niệm nơi (mười niệm) đây, không dựa theo thời tiết vậy. Chỉ (có ư) nói là ức niệm (tức nhớ tưởng) Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng (của ngài), hoặc biệt tướng (của ngài). Cứ duyên theo đó mà quán, tâm không tưởng ǵ khác. Mười niệm tương tục (như thế th́) gọi là mười niệm. (Nếu) chỉ xưng danh hiệu thôi (th́ ư nghĩa ấy) cũng gióng như vậy”[8].Như vậy th́ nếu quán tướng Phật th́ trong tâm chỉ có Phật mà thôi, không xen tạp tưởng ǵ khác mới gọi một niệm thành tựu. C̣n niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật th́ phải niệm niệm tương tục không gián đoạn. Khi niệm như thế rồi, nếu nhất tâm bất loạn, tức đắc định rồi th́ không c̣n ư niệm một hay là mười niệm. Mười Niệm hay Một Niệm nhất tâm bất loạn trước lúc lâm chung được văng sanh là không phải dễ thực hiện. V́ ngay đời này không khéo tu tập thiện Pháp, lúc lâm chung thân thể đau đớn ră rời, tâm thần hôn mê làm sao mà nghe diệu Pháp để y pháp niệm Phật văng sanh. Do vậy, Kinh A Di Đà nhấn mạnh rằng: “Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cơi đó.”[9] là nghĩa ấy.

 Văng sanh là mục đích then chốt của việc tu Tịnh Độ, niệm Phật là ch́a khóa mở cánh cửa về quê hương cực lạc. Phật dạy trong kinh th́ cơi cực lạc có chín phẩm, tức là tùy theo căn tánh và phẩm hạnh tu học mà phẩm vị sai khác. Đối với chúng sanh biết tu tập tốt, có đủ phẩm hạnh giải thoát, phát bồ đề tâm, hành bồ tát đạo, phát nguyện niệm Phật th́ chắc chắn về thượng phẩm cơi Tây Phương. H́nh ảnh đó như anh học tṛ giỏi, chăm học, được trúng tuyển thi cử là lẽ tất nhiên. Đối với chúng sanh ở đời tạo nhiều ác nghiệp, ngũ nghịch nếu biết hồi tâm niệm Phật, cho dù chỉ mười niệm niệm Phật trước giờ lâm chung (chết) thành tựu cũng được văng sanh. Ư nghĩa này, giáo lư Tịnh Độ gọi là “Đới Nghiệp Văng Sanh”, tức chưa dứt hết phiền năo mà được sanh về Cực Lạc. Mười niệm Văng Sanh là bổn nguyện từ bi của Phật nhắm đến chúng sanh tội nặng phước mỏng mà cứu độ. Cũng như vị thầy giáo gương mẫu nhiệt tâm giúp đỡ cho em học tṛ kém, cần dạy kèm thêm với phương pháp đặc biệt.

 

4-    Tâm niệm Phật trước giờ lâm chung

Đối người tu Tịnh độ, tâm lư trước giờ lâm chung rất quan trọng. Đặc biệt, người chưa từng tu hành và tạo nhiều tội lỗi, giờ phút cuối đời có duyên lành hồi tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ th́ pháp mười niệm Phật là cơ hội cứu thoát độc nhất vô nhị. Kinh dạy rằng: “Người ngu ấy, lúc lâm chung, gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủi, v́ nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật”[10]. V́ sao gọi là ngu? Do vô minh mà tạo ra nhiều điều bất thiện, như ngũ nghịch, thập ác trôi lăn trong lục đạo luân hồi gọi là ngu. Nay gặp thiện tri thức nói diệu Pháp mới biết phát tâm niệm Phật. Người đó phải khởi tâm sám hối nghiệp chướng, nguyện bỏ ác làm lành, phát bồ đề tâm và niệm Phật mới thành tựu.

Do nhất tâm niệm Phật nên vọng niệm điên đảo dứt trừ. Nhân gian có câu: “Đồ tễ buông dao thành phật”, Phật gia có câu: “Quay đầu về bờ giác”. Người ấy sanh tâm nhàm chán và xả ly mọi luyến ái cơi đời. Tâm lư ấy phải như người đi rớt vào hầm lửa cháy bỏng được cứu ra rồi không dám trở lại. Người ác tạo tội mong thoát ly luân hồi cầu sanh cơi Cực Lạc cũng như thế. Người đó mong được Phật tiếp độ về Tây Phương tha thiết như con thơ mong mẹ hiền cứu ra khỏi hố lửa đến nơi an toàn. Do sự tha thiết cầu sanh Tịnh Độ như thế gọi là Tâm dơng mănh nên được sanh về cơi Cực Lạc. Theo Trí Lễ đại sư th́ nhận định rằng: “Nếu mười niệm xưng danh hiệu Phật không tán loạn th́ nhiếp vào định, lại khi mạng chung có tâm lực dơng mănh, cho nên dự vào phẩm thứ chín vậy”[11]. Trí Khải đại sư lập luận rằng: Mười niệm hay một niệm lúc lâm chung được văng sanh là do niệm Phật tiêu trừ tội chướng: “Dĩ niệm Phật trừ diệt tội chướng”[12], tức là niệm Phật năng trừ tám mươi ức kiếp trọng tội trong sanh tử.

 

5-    Lời Kết:

Như trên đă tŕnh bày, giáo lư Tịnh Độ và pháp mười niệm niệm Phật văng sanh được bảo chứng qua kinh điển Phật dạy, qua luận sớ của chư vị tổ sư. Từ Tín khởi Nguyện, từ Nguyện khởi Hạnh để niệm Phật văng sanh Tịnh độ. Đức Phật A Di Đà tướng hảo quang minh, tay bắt ấn kiết tường, tay duỗi xuống như đang vẫy gọi và chờ đợi chúng sanh xả ly vọng trần hồi quy tịnh độ. Bốn mươi tám lời nguyện cứu độ chúng sanh thoát khỏi biển khổ. Niệm Phật để thành Phật, tu theo hạnh của Phật hồi hướng công đức đến mọi loài đồng sanh Tịnh Độ. Bất cứ pháp môn nào trong Phật giáo cũng đ̣i hỏi sự thực nghiệm tu học. Pháp mười niệm văng sanh là bổn nguyện từ bi vô lượng của Phật cũng thế, nó được thể hiện thành tựu bởi tâm hành giả trước lúc lâm chung tương ưng với Phật lực. Nếu chỉ dựa theo tri thức phân biệt và dừng lại trên ngôn từ suy lường th́ không bao giờ cảm ứng sự nhiệm mầu con đường về cơi Phật.

 


 

[1] Phật Thuyết Vô lượng Thọ Kinh - Dịch từ Hán bản, Đại Chánh Tạng, q 1, tr. 268a.

[2] Kinh Vô Lượng Thọ, HT. Thích Trí Tịnh dịch.

[3] Thập ác là mười điều ác, ngược với thập thiện, gồm: 1/ Sát sinh. 2/ Trộm cắp. 3/ Tà dâm. 4/ Nói dối. 5/ Nói dụ dỗ (tức thêu dệt lừa gạt, hán văn là ư ngữ). 6/ Nói ly gián (tức nói hai lưỡi). 7/ Nói thô ác. 8/ Tham. 9/ Sân. 10) Tà kiến.

[4] Giết cha, giết mẹ, giết A La hán, làm thân Phật ra máu và phá ḥa hiệp Tăng.

[5] Kinh Quán Vô Lượng Thọ, HT. Thích Trí Tịnh dịch.

[6] Vô lượng Thọ kinh Ưu bà đề xá nguyện sanh kệ chú, q thượng, Sa Môn Đàm Loan chú giải.

[7] Vô lượng Thọ kinh Ưu bà đề xá nguyện sanh kệ chú, q thượng, Sa Môn Đàm Loan chú giải.

[8] Vô lượng Thọ kinh Ưu bà đề xá nguyện sanh kệ chú, q thượng, Sa Môn Đàm Loan chú giải.

[9] Kinh A Di Đà, HT. Thích Trí Tịnh dịch.

[10] Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Hán dịch: Tào Ngụỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT. Thích Trí Tịnh.

[11] Trí Lễ “Quán vô lượng thọ Phật kinh sớ diệu tông sao”, bản Hán, Đại chánh tạng 37, tr. 218b.

[12] Trí Khải “Quán Vô lượng Thọ Phật Kinh sớ”, bản Hán, Đại chánh tạng 37, tr. 218b.

 

 

 


Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Magazine
Last modified: 02/06/12